Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên
Phan_8
Cảnh Thiền Cửu Hoa
Vẫn nói rằng núi Cửu Hoa có chín ngọn núi hình dáng như hoa sen, mang một vẻ kỳ vĩ tú lệ bẩm sinh, trường tồn cùng thời gian, có một linh hồn bất diệt. Rất nhiều người đến nơi này nảy sinh những tưởng tượng ảo mộng trong không khí Thiền của hoa sen, họ thường xuyên quên mất nỗi mơ hồ của kẻ qua đường là chính bản thân mình.
Phong cảnh núi Cửu Hoa là một bức tranh sơn thủy thiên nhiên, treo lửng lơ giữa tầng mây, dòng thủy mặc trôi chảy nói cho chúng ta hay sự sáng suốt trí tuệ của Phật, Thiền. Ánh mặt trời nơi đây rất huyền ảo mơ hồ, khi bạn đến, sinh mệnh điểm tô dung nhan thanh xuân, khi bạn quay mình, năm tháng đã già đi, đánh mất vẻ ban đầu. Phật nói, kiếp phù sinh như cát bụi, chín đóa hoa sen ấy, đã nhìn thấu hết mọi bèo tụ bèo tan của đời người, sẽ không vì ai mà đợi chờ ngày mai định mệnh, cũng không vì ai mà thay đổi câu chuyện đã hoàn thành.
(1) Nguồn gốc Cửu Hoa
Khởi hành với một tâm thế như hoa sen, núi Cửu Hoa đã mở rộng cánh cửa lòng với chúng sinh, Thiền lý của núi Cửu Hoa cũng cảm nhiễm cả vùng Huy Châu rộng lớn, khiến cho hoa sen như nước nở rộ trong từng ngóc ngách cổ kính, thê lương.
Nơi đây là đạo tràng của Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, cao tăng Kim Kiều Giác[4] đã từng du ngoạn Cửu Hoa, tìm tòi những điều huyền bí, vất vả tu luyện những mấy chục năm, đến năm chín mươi chín tuổi thì viên tịch. Qua ba năm, nhục thể của ngài vẫn tươi tắn như còn sống, chúng tăng lữ bèn căn cứ theo đạo hạnh của ngài lúc sinh thời và rất nhiều dấu hiệu khác, cho rằng ngài là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát. Và họ đã xây dựng tháp đá, lưu giữ và thờ cúng nhục thân của ngài trong đó, đồng thời tôn ngài thành “Kim Địa Tạng” Bồ Tát, còn núi Cửu Hoa dần dần trở thành đạo tràng Địa Tạng Bồ Tát, trăm ngàn năm qua, khói hương không dứt, hưng thịnh chẳng suy.
[4] Kim Kiều Giác/ Kim Kyo–gak (696 – 794), tu sĩ Tân La (Silla), tục gọi là Kim Địa Tạng, là họ hàng của quốc vương nước Tân La cổ (nay là phía Đông Nam bán đảo Triều Tiên).
Cho dù là vào mùa nào, hoặc là bạn từ đâu tới, tiếng kinh kệ ở Cửu Hoa sơn vẫn vang khắp nơi nơi. Bạn vội vã hay nhàn tản đi tới, thì gió trong sơn miếu đều thổi bay bụi trần vương trên người bạn, để trái tim tinh khiết chảy trôi theo Thiền ý.
Phóng hết tầm mắt nhìn ra xa, những lầu gác đền đài ẩn sau rừng cây, tựa đời người như tụ như tan. Cả ngọn núi Cửu Hoa được xây dựng theo phong cách kiến trúc Huy phái, những bức tường lợp ngói đen, những giếng trời bằng gỗ chạm trổ, kết hợp một cách khéo léo tinh xảo giữa sự lãng mạn nên thơ của dân gian và văn hóa chùa chiền, thể hiện rõ ràng một vẻ đẹp khác biệt. Cho dù bạn mang theo tâm tình thế nào bước vào khung cảnh này, thì cũng có thể tìm được những vết tích mà thủy mặc đã từng thấm đẫm ở bất cứ chỗ nào nơi đây, cũng có thể ngửi thương thơm tràn ngập của tháng năm. Đây không phải mộng cảnh, ở Phật quốc thanh tịnh, sáng rõ như nước này, bạn sẽ cảm thấy linh hồn mỏng manh của bản thân dần dần được lấp đầy, sẽ nhìn thấy phong cảnh nhân gian phồn tạp dần dần trở nên thuần túy thanh tịnh.
Khi bạn đi ngược dòng tìm nguồn gốc của núi Cửu Hoa, cũng là đang đi ngược dòng tìm nguồn gốc của đời người. Khi những năm tháng của quá vãng chảy theo mạch nước, dập dềnh trôi tới, những gì bạn thấy là tàn khuyết hay là viên mãn? Tham ngộ Phật pháp bằng những tâm trạng và cuộc đời khác nhau, thì chân lý mà bạn ngộ ra cũng hoàn toàn khác biệt.
Bạn đứng giữa thắng cảnh Phật quốc yên tĩnh và hiền hòa ấy, có biết được nơi này đã từng mù mịt khói lửa chiến tranh, cũng từng gặp phải cảnh ngộ điêu linh tàn phá, chỉ là cho dù trải qua trăm ngàn chìm nổi, kinh qua biết bao vui buồn ly hợp, cuối cùng vẫn có thể gấm hoa rực rỡ, trăng sáng sao tỏ. Mà Phật tổ ngồi trên đài sen, mặc dầu trải qua biến thiên của năm tháng, phủ đầy bụi bặm của thời gian, vẫn có thể bình thản, an nhàn trước hoa xuân rơi rụng, ngắm quen trăng thu tàn khuyết.
(2) Chân thân bảo điện
Như nước chảy trong núi Cửu Hoa, không cần vội vã truy đuổi, chỉ cần thong thả dạo bước là sẽ có một cảnh tượng tươi đẹp đợi chờ bạn. Núi Thần Quang một mình thanh tịnh giữa sương mù rừng núi, người đời sau đã xây dựng điện tháp Địa Tạng trên mảnh tịnh thổ này, đặt nhục thân tiên cốt của Kim Địa Tạng Bồ Tát trong đó. Từ đây, bảo điện Nhục Thân giống như một ngọn đèn Phật đầy trí tuệ, thắp sáng thánh địa Cửu Hoa suốt cả ngày đêm.
Qua bậc thang, đến điện tháp, nhìn điện gác nguy nga, ngắm Phật tổ trang nghiêm. Trên mi cửa có treo bức hoành phi “Đông Nam đệ nhất sơn”, lại là một cảnh quan tự nhiên hùng vĩ. Trên hành lang của đại điện có khắc đủ mọi loại dị thú trân quý, kỳ hoa dị thảo, chúng được thời gian rửa sạch, nhưng vẫn sống động như xưa, tươi mới hút mắt. Những tác phẩm nghệ thuật dân gian khảm vàng nạm bạc ấy bảo tồn lịch sử nghìn năm của bảo điện, vẽ nên cảnh quan văn hóa của Cửu Hoa, đến ngày nay, bãi bể nương dâu đã từng trải qua hết chúng sẽ tô điểm cho giấc mộng của ai?
Điện tháp được lát bằng đá cẩm thạch trắng, khám thờ Phật trùng trùng điệp điệp, giống như số mệnh duyên sâu duyên mỏng nhìn thấu hết luân hồi của trăng thu gió xuân chốn nhân gian. Trong tháp cúng bái nhục thân của Kim Địa Tạng, chân thân bất hoại mạ ánh vàng, ngài cam lòng bị vận mệnh giam cầm trong thời gian nghìn năm, chỉ vì muốn đến cái đích phúc tuệ viên mãn trong pháp giới Từ Hàng. Từ đây, thiền tọa trên đài sen, dùng sự từ bi của Phật để phổ độ cho hết thảy chúng sinh.
Là bảo địa phong thủy của núi Cừu Hoa, đã khiến cho cao tăng các đời trải hết cuộc đời, là Phật pháp tinh thâm mênh mông, khiến cho họ thấu ngộ Thiền lý, đắc đạo ở Cửu Hoa mới có được chân thân bất hoại và được lưu giữ trong điện tháp theo cách ấy. Ngài đã đem chân lý và tinh túy của Phật giới cô đặc và đúc kết trong nhục thân, dùng sự từ bi để đổi thay nhan sắc của non nước núi Cửu Hoa, dùng sự thiền định để làm thanh tịnh linh hồn du khách.
Ra khỏi tòa điện, gặp gỡ người đến, mà sau phút giây lướt qua nhau, người khách qua đường dáng điệu vội vã ấy, ai sẽ nhớ đã từng có với ai một cuộc tương phùng trước Phật? Dù cho nhiều năm về sau, lại trùng phùng chốn này mà vẫn không hay biết sự tồn tại của nhau. Có lẽ không từng quen biết so với việc biết nhau rồi lại quên nhau sẽ ấm áp hơn, bạn đã từng ngóng đợi được quen biết nhau như thế, có một ngày cũng sẽ mong chờ quên nhau như vậy. Phật gia coi đây là luân hồi, nếu bạn giác ngộ được mối duyên pháp này, có lẽ bạn sẽ dùng một phương thức khác để đánh giá những tụ tan ly hợp của đời người.
Rời đi với Thiền ý nửa tỉnh nửa mê, lá phướn ngũ sắc bay phấp phới trong gió, đã không phân biệt được rõ ai là khách qua đường, ai là người quay về. Cờ phướn vẫy gọi trong khoảnh khắc này, là đang cáo biệt hay là đang mời gọi đây?
(3) Pháp hội Địa Tạng
Kinh Phật chép rằng, ngày ba mươi tháng bảy âm lịch hàng năm là ngày đản sinh của Địa Tạng Bồ Tát, truyền thuyết nói rằng đây cũng là ngày Kim Địa Tạng đắc đạo, ngày này, núi Cửu Hoa cử hành điển lễ long trọng ở Nhục Thân điện. Có rất nhiều khách dâng hương sẽ từ trời nam đất bắc hối hả tụ hội đến đây, trong những tay nải nặng trĩu chứa đầy lòng thành kính và ước nguyện, mang theo hương khói và kinh kệ, chỉ để chiêm bái lần pháp hội Địa Tạng trang nghiêm này.
Trong ngày này, núi Cửu Hoa phô bày trước mắt mọi cảnh tượng phồn hoa vô tiền khoáng hậu. Người đổ về như thác lũ, vứt bỏ mọi khói bụi của nhân gian, thong thả dạo bước ở Cửu Hoa, dưới chân vạn Phật, cầu ước siêu độ vong linh, tiêu trừ tai chướng. Trên những con đường bằng phẳng, không phải vì người đến quá nhiều, ngày tháng quá lâu, mà cảnh quan núi Cửu Hoa trở nên cũ kỹ tàn úa, nhạt nhòa dung nhan.
Bao nhiêu người khách qua đường đi trên phố Cửu Hoa, cảm nhận thánh địa được gọi là “Phật quốc liên hoa” này, trong thời gian mơ hồ, bỗng tưởng rằng mình là một vị tăng giả vân du trở về, chìm đắm trong nó, không thể nào rời đi lần nữa. Từ đây, tháng ngày hương khói không ngớt, và ngàn vạn du khách đều trở thành một vẻ đẹp không thể thiếu trong khung cảnh Cửu Hoa.
Tòa điện đường được xây dựng trên lưng chừng núi chính là “Bách Tuế cung” nổi tiếng của núi Cửu Hoa, ánh nắng vỡ vụn xiên xiên rải trên bức đại tự sơn son thiếp vàng, nhưng không thể đánh thức nổi những linh hồn ngủ say trong điện. Trên mảnh đất tịnh thổ không vướng bụi trần này, buồn đau sẽ được thanh thản, tội ác sẽ thành thiện lương. Có lẽ bạn từng hô mưa gọi gió, cũng từng kiêu ngạo phóng túng, nếu bạn đến đây, cho dù là với bất cứ thân phận nào, trong tuệ nhãn trong suốt như nước của Phật tổ, tất thảy chúng sinh đều bình đẳng.
Đúng thế, tất cả những người đến núi Cửu Hoa dự Pháp hội lớn này đều được gọi là khách hành hương. Họ cam tâm tình nguyện buông bỏ sự kiêu ngạo và vinh quang của ngày thường, đón nhận sự thanh tẩy của hương khói trước Phật, chờ đợi Phạn âm làm tinh khiết tâm hồn. Những người này, ai nấy đều có duyên pháp của mình, họ trèo đèo lội suối chẳng quản nghìn dặm xa xôi đến đây, là vì không nhìn rõ được cuộc sống sướng khổ mơ hồ nơi thế gian, hay là chán ghét khói lửa mù mịt chốn hồng trần, chỉ muốn ở chốn hoa sen nở rộ, dùng linh hồn làm lời chú giải, đổi lấy tâm trạng bình tĩnh và yên lành.
Sinh mệnh có hạn, có lẽ đến nay không ai thực sự hiểu rằng, Phật tổ rốt cuộc đã dùng sức mạnh gì mà có thể giữ chặt được linh hồn của khách hành hương, để họ luôn đau đáu tình thâm tìm đến. Làm thế nào khiến họ lưu luyến không nỡ rời như thế, chỉ muốn tìm một chốn có thể dừng chân ở núi Cửu Hoa, bình yên ung dung sống hết một đời một kiếp dưới ánh sáng của bồ đề?
(4) Núi chính Thiên Đài
Cảnh trí núi non xưa nay luôn nằm giữa chốn mây mù vạn trượng, trong mây khói nhìn thấy núi non trùng điệp, cảm nhận trời đất huyền ảo, luôn thấy rằng, phong cảnh cũng như đời người, đều có nhân quả riêng của nó. Có bao nhiêu núi sâu rừng rậm, thì có bấy nhiêu suối chảy thác trào, núi rừng sâu thẳm chứa biết bao đền miếu cổ sát bị mây khói che phủ giống như chốn Bồng Lai tiên cảnh, không vướng bụi trần.
Núi non Cửu Hoa như một bức tranh thủy mặc đậm nhạt đan xen, mà núi Thiên Đài là một nét bút đậm màu gộp lại của rất nhiều núi non, kết tụ hết thảy thắng cảnh của núi Cửu Hoa, thế nên du khách từ ngàn xưa đã hết lần này đến lần khác tụ hội phong vân trên đỉnh Thiên Đài. Từ đường Cửu Hoa lên Thiên Đài, dọc đường vừa kiếm tìm phong cảnh, lại vừa bị phong cảnh đuổi theo. Đến chính đỉnh của Ngũ Đài, phóng tầm mắt nhìn núi non nhấp nhô, cúi xuống ngắm Trường Giang như lụa. Khi cái tôi nhỏ bé đứng trước trời đất mênh mông vô tận, bạn không biết là sinh mệnh đã tạo nên sự thần kỳ của vạn vật, hay là vạn vật nung nấu lên sự thần kỳ của sinh mệnh.
Ngọn gió núi trong lành lướt qua, làm thức tỉnh những suy nghĩ còn u mê, từng trận gió rì rào như sóng biển mang đến mùi trầm hương cổ mộc thơm ngát. Trong thời đại vừa theo đuổi đỉnh cao vừa sùng bái tự nhiên này, và cũng trong thời đại vừa chạy theo trào lưu lại vừa vứt bỏ trang sức bề ngoài, trở về với bản ngã, càng có nhiều linh hồn cần đi từ nóng vội đến trầm tĩnh, càng nhiều sinh mệnh cần đi từ rực rỡ lóa mắt đến bình dị thực chất, vẫn nói người ở ngôi cao lạnh không chịu nổi[5], nhưng chỉ có đăng cao, mới có thể nhìn rõ núi sông trùng điệp, hiểu được vạn tượng gió mây.
[5] Nghĩa bóng chỉ người có địa vị cao thường không có tri kỷ.
Khi mây khói mịt mù lan tới, bạn vẫn có thể nhìn thấy rõ một tảng đá lớn, bên trên khắc ba chữ “Phi Nhân Gian”. (không phải chốn nhân gian) Nơi đây chỉ nghe thấy tiếng chuông, chỉ nhìn thấy đỉnh núi cheo leo trong mây khói chờn vờn, nhân gian dường như càng lúc càng xa mãi muôn trùng. Những người đến đây đều muốn trong một thời gian ngắn ngủi được đắm mình hoàn toàn vào trong mộng cảnh. Trong mơ, bạn là một tiên khách chốn núi thiêng, không nếm trải khói lửa nhân gian nữa, trong mơ bạn ngồi nghiêm trang trên đài sen, ngắm hết những khách qua đường lặng lẽ tới tới lui lui.
Trong mộng, mấy độ sen rụng rồi sen lại nở, khi tỉnh lại tuổi xuân tươi đẹp đã chẳng còn. Lúc mây khói nhạt nhòa tan đi, bạn nhìn thấy bản thân đang đứng giữa ranh giới của mộng và tỉnh, cõi lòng xao động đó như những gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ phẳng lặng.
Một đời người luôn đi tìm phong cảnh hoàn mỹ nhất, há không biết phong cảnh hoàn mỹ nhất lại thường không hẹn mà gặp hay sao? Bạn trao cho Thiên Đài một quãng thời gian, Thiên Đài sẽ trả lại bạn một khoảng năm tháng.
Ai nói thời gian dễ dàng vứt bỏ con người, nhân lúc tháng ngày không chú ý, bạn có thể ném bỏ nó, giẫm lên cầu thang mộng tưởng, phiêu du trong thánh địa tinh thần. Có những chuyến biệt ly mà không cần ngoảnh đầu nhìn lại, giống như một số chuyện cũ không cần phải hồi tưởng. Núi Cửu Hoa chính là như thế, nó đem đến cho bạn quá khứ hữu tình, rồi lại đem đến cho bạn tương lai bình thản, mà cuộc sống của thời khắc này hoàn toàn thuộc về chính bạn. Nếu như vẫn quên lãng, thì hãy mượn núi Cửu Hoa như chiếc bút tuyệt diệu, lấy núi làm giấy, lấy sông làm mực, vẽ hết vẻ đẹp thiên thu, phong nhã vạn đời.
Há chẳng biết, văn chương phi thường, cần phải có phong cảnh phi thường, và còn cần có cuộc đời phi thường. Bạn đến với một tâm trạng nặng nề, thì có thể sẽ ra đi với một tâm thế thanh thản thoải mái. Sau này, mặc dầu tháng năm như nước, sông núi già đi, phong cảnh của núi Cửu Hoa vẫn như ngày hôm qua. Đóa hoa sen tinh khiết đó vẫn âm thầm tỏa hương giữa phong cảnh nhân sinh người đến kẻ đi.
Thánh địa Ngũ Đài
Luôn có một phong cảnh trong sáng thanh tịnh cần bạn phải hối hả vội vã tới đó; luôn có một khoảng tháng năm như nước, khiến chúng ta không thể thờ ơ phụ bạc nó. Suốt chặng đường đi vòng vèo ấy, bước chân giữa phong cảnh tươi sáng của nhân gian, giữa hành lang lịch sử sâu hun hút, góp nhặt những khoảnh khắc như gió cuốn mây trôi. Đi qua hết núi hết sông, ngắm tận mưa khói lá rụng, ngọn núi chót vót ấy, Ngũ Đài trong lành chính là hình bóng mà bạn cần tìm lúc này. Trong cảnh Thiền nguyên sơ này, những khói lửa của linh hồn khi mờ khi tỏ đến vô cùng, dù bạn có đến đây với những suy nghĩ hào hùng ngông cuồng đến đâu, chỉ cần bước chân vào thánh địa gọi là Ngũ Đài này, trăm mối ngổn ngang đều biến thành bình tĩnh ung dung.
Chỉ là trong khoảnh khắc một chiếc lá lìa cành, hồng trần đã ở sau lưng, khiến bạn ngỡ rằng cửa Phật hóa ra không cao vời đến vậy, bước đi một thước, ngoái nhìn một cái, bạn đã có mặt giữa đất Phật. Đi xuyên qua núi Ngũ Đài, không khí mát mẻ bao trùm khắp núi non, còn cả mùi đàn hương thoang thoảng từ những đền miếu khác nhau thoảng về, khiến bạn ngất ngây say đắm.
Cho dù bạn biết rằng, cố chấp bước vào thánh địa mát lành này có thể sẽ bị rơi vào vòng xoáy của khói mây vạn trạng, không thể nào thoát ra; nhưng bạn vẫn cam tâm tình nguyện vứt bỏ sự ấm áp của khói lửa hồng trần, truy tìm sự minh mẫn hơn nữa trong cảnh Thiền mông lung này. Những tháng ngày mát lành nơi đây sẽ dần dần phủ lấp và làm dịu hàng nghìn hàng vạn suy nghĩ nóng vội, khiến cho những chúng sinh còn mê lầm giữa bùn lầy của nhân gian đến được con đường nhân sinh yên ả và thông đạt.
Kiếm tìm dọc theo những ngõ nhỏ sâu hút trong lịch sử, quãng đường nối liền từ thời Hán đến thời Đường trồng đầy cây bồ đề. Đứng trên núi Ngũ Đài, nhìn thấy Đại Hán xanh xanh, nhìn thấy triều Đường huy hoàng chói lọi, nhìn thấy biết bao đế vương cuồng vọng tay cầm kinh kệ thành khẩn nguyện cầu trước Phật, cầu cho Phật tổ phù hộ giang sơn, vạn đời nối tiếp. Những cuốn kinh ngả vàng ấy có thể mài giũa sự ngang ngược ngút trời của đế vương, cũng có thể trừ bỏ sự bi quan khiếp nhược của thế nhân, để trong một cuốn sách nhỏ hẹp, bạn có thể nhìn thấy bờ cõi rộng lớn của đời người.
Đặc biệt là triều Đường, đây là một triều đại tôn sùng Phật giáo, thịnh hành Phật giáo, vì hai vương triều Lý – Đường khởi binh từ Thái Nguyên mà có được thiên hạ, vì thế nên gọi núi Ngũ Đài là “Tổ tông thực đức chi sở” (nơi tổ tiên gầy dựng công đức). Mấy đời đế vương đều xây dựng chùa chiền trên núi Ngũ Đài, tăng lữ lớp lớp xuất hiện, bạn có thể tưởng tượng khí thế vạn phật ngồi trang nghiêm trên đài sen đó, Phạn âm quấn quít giữa mây khói mờ mịt, mà ngàn vạn khách hành hương từ Ngũ Hồ Tứ Hải lặn lội lên núi ngắm cảnh. Đây là nơi Phật Đà gặp gỡ chúng sinh, là dịp thuyết pháp giảng kinh ngàn năm mới gặp, là chốn phong vân hội tụ.
Đứng bên bờ năm tháng thênh thang, nhìn lại núi Ngũ Đài, giai đoạn Thịnh Đường huy hoàng sáng lạn năm đó đã biến mất trong mây khói mênh mang của lịch sử. Thế nên giang sơn hao gầy mà đế vương nhìn thấy trong chiếc chén, chính là cảm giác đổ vỡ hoang lạnh đến kinh người trong tim bạn. Cho dù núi Ngũ Đài ngày nay không được phồn thịnh như thời Đại Đường, nhưng vẫn còn đó sơn tự sừng sững, tăng lữ như mây. Trong khung cảnh núi trong nước mát này, những ngọn lửa Thiền vẫn luôn nhấp nháy, kinh kệ trước Phật vẫn luôn ngâm nga, không hề vì sự thay triều đổi đại mà ngừng nghỉ gián đoạn, cũng không vì năm tháng trôi qua mà bỗng chốc mệt mỏi.
Chỉ cần bạn đến đây bằng cả trái tim, bạn sẽ có thể nhìn thấy biết bao nhiêu chùa miếu mọc lên san sát giữa cơn gió mát già cỗi, biết bao nhiêu khói hương trở nên bừng sáng rực rỡ trong ngày tháng hoang lạnh. Sinh mệnh vốn là cái này chết đi cái kia sinh ra, khi bạn ngẩng đầu nhìn ra xa, vầng mặt trời đỏ ối từ từ nhô cao giữa dãy núi non trùng điệp ấy đã lại tỏa sáng soi chiếu thế gian, vương giả phong lưu.
Núi Ngũ Đài là đạo tràng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, chùa miếu giữa núi đều thờ cúng tượng Phật của Văn Thù Bồ Tát. Người toàn thân dát vàng, dáng vẻ như đồng tử, tóc búi cao năm chòm, tay trái cầm hoa, tay phải cầm kiếm, dùng Thiền lý trí tuệ, Phật nghĩa từ bi để độ hóa người đời. Mỗi khách hành hương cưỡi gió mà đến, dưới trời xanh biêng biếc bước vào từng tòa điện miếu thanh tịnh, hương khói thoang thoảng bồng bềnh, Phạn âm vang vọng xa xa, sẽ khiến bạn chợt tỏa hào quang, có lẽ những đạo lý bao năm nay vẫn chưa thấu ngộ, chỉ trong một sát na bỗng nhiên hiểu rõ.
Mà Văn Thù Bồ Tát trước mắt đang nhìn bạn, sẽ vì bạn mà mở cánh cửa lòng còn đóng kín, để bạn hiểu rằng, cuộc sống ngoài rượu thịt ê hề, vẫn còn có trăng thanh gió mát.
Có lúc, dù có ngàn vạn lời nói cũng không bằng một cái mỉm cười giơ cành hoa của Phật tổ. Bức tượng Phật có muôn vàn thần thái ấy, chẳng phải là một loại nhân sinh bách tướng khác hay sao? Trong thánh địa Ngũ Đài gió mây vạn dặm, công lợi mà người đời chăm chăm tìm kiếm, trong con mắt Phật tổ chẳng qua chỉ là phú quý phù vân, công danh hão huyền. Ngài có thể biến sinh mệnh tươi đẹp như hoa, cũng có thể coi vạn vật như tro bụi. Thời gian âm thầm trôi đi, những người đến đây cũng chỉ cần dừng lại trong giây lát, hiểu thấu một chút Phật pháp, giác ngộ một vài nét Thiền tâm, rồi sau đó tiếp tục đi đến chân trời.
Ở núi Ngũ Đài, đâu đâu cũng là núi lạ vách thiêng, dù vô tình hay hữu ý đều có thể gặp những ngọn núi này, vẻ đẹp tự nhiên sẽ khiến tư duy của bạn biến hóa muôn trùng. Dường như mỗi một ngả rẽ lối quặt đều là một bước ngoặt khổ tận cam lai, phong cảnh tự nhiên sáng sủa ấy, kiến thức lịch sử lớn lao, Phật học Thiền lý sâu sắc ấy, lại tưới tắm cho cõi lòng khiến bạn trở nên thông đạt ôn hòa. Năm ngọn núi như năm cột chống trời đâm thẳng lên trên, sừng sững cao vút, đỉnh núi lại bằng phẳng như cái đài, cái tên Ngũ Đài cũng từ đây mà ra.
Đứng giữa thắng cảnh Ngũ Đài, ngắm nhìn làn khói ngưng tụ xanh thẳm, ráng trời như gấm như hoa, ngắm sương khói phù vân, trăng treo đỉnh núi, khiến bạn lên cao mà không thấy lạnh lẽo, ở nơi huyền ảo mà chẳng thấy mông lung. Bởi vì mỗi đám mây màu lướt qua người bạn, mỗi làn gió mát thoảng qua áo khăn, đều nói với bạn rằng, bạn đang ở Ngũ Đài, bạn đang ở dưới chân Đại Phật, những câu chuyện bạn từng bỏ lỡ đều đã được gửi gắm trong năm tháng trôi đi. Bạn đến Ngũ Đài, đứng trên đỉnh cao, từ mây tụ đến mây tan, từ hoa nở đến hoa tàn, cho đến khi khói ráng nhuộm màu hoàng hôn, trăng tròn chiếu sáng trời đêm, giấc mộng mơ hồ vẫn chưa hề tỉnh lại.
Quyển thứ tư: Nước hồ xanh biếc
Chống một cây sào dài, một mình leo lên chiếc thuyền lan, chèo đến cao nguyên đầy tuyết nơi xa tít tắp, đi tìm hồ nước tinh khiết. Một hồ nước trong vắt như tấm gương, chiếu rõ vạn vật phồn tạp nơi nhân gian, soi thấu bản thân chân thực nơi nội tâm. Bộ lạc Vân Gian trong bức họa đó phải chăng là một vùng tịnh thổ cuối cùng trên cõi đời? Công chúa Đại Đường bị gả tới nơi xa xôi, trải qua ngàn năm mây nước, nàng vẫn khỏe chứ? Lão ni đến hồ thiêng lấy nước kia, trong ánh mắt ngoái nhìn rốt cuộc chất chứa bí ẩn gì? Đám rong rêu dập dềnh trong nước hồ ấy, mỗi ngày đều nói lời ly biệt với khách qua đường, đã từng hỏi họ có thực sự muốn ra đi hay không? Nếu luôn gặp nhau ở non nước bên ngoài, chẳng thà, hãy bình thản đợi chờ nơi bến đỗ nhân sinh. Nhìn nước hồ xanh biếc đó, làm thế nào để lần nữa sắp xếp duyên phận của chúng ta?
Bốn mùa Tây Hồ
Là ai cầm một chiếc ô giấy dầu, đi xuyên qua mùa mưa đa tình, tìm mộng cũ phồn hoa chốn Giang Nam?
Là ai nhấp một chén trà trong, tựa lan can lặng lẽ dõi chốn xa, đợi một đóa sen nở trong cô đơn?
Là ai cưỡi một chiếc thuyền con, dưới trời sương trăng sáng như nước, chống chèo qua tháng năm vội vã?
Lại là ai ngắt một nhành hàn mai, viết nên bài thơ tài hoa phong lưu?
Tây Hồ, Tây Hồ trong vắt như ngọc, trên đê hoa bờ liễu đó, phải chăng là bóng dáng cố nhân trầm ngâm đang quấn quanh? Trong nhà thủy tạ bên hồ đó, phải chăng còn lưu giữ phong cảnh đã bỏ sót của ngày hôm qua?
(1) Mưa xuân đê Tô
Thủy quang liễm liễm tình phương hảo, sơn sắc không mông vũ diệc kỳ.
Dục bả Tây Hồ bỉ Tây Tử, đạm trang nùng mạt tổng tương nghi.
(Dưới nắng long lanh màu nước biếc. Trong mưa huyền ảo vẻ non tươi.
Tây hồ khá sánh cùng Tây tử. Nhạt phấn nồng son thảy tuyệt vời[1])
[1] Tô Đông Pha, “Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ”, dịch thơ Nam Trân.
Tây Hồ khói mưa lãng đãng, tựa như một bức tranh thủy mặc thanh tân trang nhã, tông màu ẩm ướt, hương thơm nhàn nhạt, cổ kim hòa quyện, mê hoặc cõi lòng của biết bao khách đi đường đi tìm giấc mộng?
Bên bờ dòng người huyên náo tụ hội, lòng hồ lại là bóng lặng sóng trong. Khói mưa mờ mịt đổ trên những cành liễu rủ thướt tha, ánh sóng lay động, sóng gợn lăn tăn mê đắm hồn người. Khi ánh mắt mơ màng, mộng cảnh cũng trở nên yên bình… Đoạn Kiều[2] phía xa vắt ngang qua hồ nối liền đôi bờ, ngọn gió xoáy vòng trôi đi dường như xuyên qua thời gian ngàn năm, những năm tháng xưa cũ gột sách truyền thuyết ngàn năm, trải dài trong non nước tú lệ của Tây Hồ, mới mẻ và lung linh. Cây cầu kỳ thực không hề đứt đoạn, đứt đoạn là tình duyên một kiếp của Bạch Nương Tử và chàng Hứa Tiên. Chiếc ô giấy dầu đa tình đó, có thể níu lại giấc mộng xưa đã vội vã trôi qua của họ hay chăng?
[2] Đoạn Kiều: Tên của cây cầu, Đoạn có nghĩa là đứt, gãy.
Tình tiết ngàn năm sớm đã định sẵn, cái còn lại là truyền thuyết vĩnh hằng. Những người tay cầm ô che mưa, đứng trên cầu ngắm phong cảnh đó sẽ rơi vào giấc mộng của ai?
Khói mây nhuốm màu lên vẻ thanh tú mỹ lệ của dương liễu Tây Hồ, ráng trời sớm mở ra quang cảnh tươi đẹp của hoa đào trên đê Tô. Những khách đi đường ngang qua, bước xuyên con đường lát đá, họ rũ hết khói bụi trên người, gửi gắm ngày tháng mênh mang vào mùa mưa ngắn ngủi.
Bóng dáng áo xanh, nho nhã ung dung đó là Tô Tử chăng? Còn nhớ năm xưa, ông cùng Triêu Vân[3] chèo thuyền trên Tây Hồ, chén suông đối nguyệt, thi từ bay bổng, bất tận triền miên. Cớ sao năm tháng phiêu dạt, giai nhân mờ mịt, không chừa tung tích, để đau thương níu mộng.
[3] Triêu Vân là người thiếp của Tô Thức, vốn là kỹ nữ ở Tiền Đường, khi Tô Thức đến Tiền Đường làm quan đã thu nhận nàng làm thị nữ, khi đến Hoàng Châu thì nạp làm thiếp. Ban đầu nàng không biết chữ, sau theo Tô Thức học hành, cũng hiểu Phật lý. Khi Tô Thức làm quan ở Huệ Châu, các thiếp đều rời bỏ ông, duy có nàng Triêu Vân đi theo.
Chuyện thiên cổ ưu sầu, duy chỉ còn lại chữ Tình. Tô Đông Pha khoáng đạt hào phóng, cho dù tài cao có thể cười nhạo vương hầu, nếu như không gặp Triêu Vân, không người tri âm, sao có thể phong lưu tài mạo nhường ấy? “Thương tâm nhất niệm thường tiền trái, đàn chỉ tam sinh đoạn hậu duyên.”[4](Tạm dịch: Đau lòng nghĩ đền nợ kiếp trước, chớp mắt ba kiếp đứt hậu duyên) Cái Tô Đông Pha hoài niệm là trăng sáng ngày xưa, còn vầng trăng sáng mới cong cong như móc câu hôm nay, một nửa là ly, một nửa là hợp. Đa tình, trước sau vẫn là người ngắm trăng.
[4] Thơ của Triêu Vân.
Bước đi trên đê Tô dài thăm thẳm là ai, suốt trên dọc đường nhặt mãi ánh trăng khi mờ khi tỏ? Thế nhưng, người đó tìm được những gì? Cho dù lặn xuống Tây Hồ, thì có thể vớt được những gì?
(2) Sen hạ Tây Lãnh
Thiếp thừa du bích xa, lang kỵ thanh thông mã.
Hà xứ kết đồng tâm, Tây Lăng tùng bách hạ.
(Thiếp đi xe du bích, chàng cưỡi ngựa đốm xanh. Đồng tâm nơi nào kết? Dưới tùng bách Tây Lăng).
(Nam triều, Tô Tiểu Tiểu[5], “Tô Tiểu Tiểu ca”, dịch thơ Điệp Luyến Hoa[6])
[5] Nàng Tô Tiểu Tiểu, danh kỹ hàng đầu ở Tiền Đường thời Nam Tề, năm mười chín tuổi, Tô Tiểu Tiểu vì tương tư mà nhiễm bệnh phong hàn, lại thêm nàng từ nhỏ đã có bệnh ho ra máu, không bao lâu sau thì ngọc nát hương chìm. Sau khi Tô Tiểu Tiểu tạ thế, một cao thủ võ lâm chung tình chiều theo nguyện vọng bình sinh của nàng mà chôn nàng dưới gốc liễu bên cầu Tây Lãnh.
[6] Bản dịch thơ trên thivien.net.
Mộng tựa sen xanh, chầm chậm xòe cánh giữa sóng biếc Tây Hồ. Bên bờ có người đang chầm chậm thả bước, giữa đình có người đang lặng lẽ thưởng trà. Họ đều mượn cảnh trí thanh tĩnh mát mẻ của Tây Hồ, tiêu phí những năm tháng nhàn nhã. Những gợn sóng biếc xanh trải dài đó, phản chiếu bóng hắt của lầu cao thành thị, Hàng Châu – tòa cổ thành ngàn năm thấm đẫm mưa gió nảy sinh những thi ý và nhàn nhã vô tận.
Ánh mặt trời trong trẻo dịu dàng hắt xiên lên mặt Tây Hồ, những sóng nước lăn tăn đang trêu ghẹo tâm sự của ai? Một chiếc thuyền con neo giữa hoa sen, lặng ngắm trăng tròn hoa nở, biển thế nổi chìm. Lúc này, mắc kẹt là năm tháng của ai; cô đơn, là cuộc đời của ai?
Những viên ngọc long lanh như sương mai đó phải chăng là những giọt lệ đa tình của Tô Tiểu Tiểu? “Thiếp thừa du bích xa, lang kỵ thanh thông mã. Hà xứ kết đồng tâm, Tây Lăng tùng bách hạ?” Nhớ lại cảnh tượng tình mềm tựa nước năm đó, mối tình “nhất kiến khuynh tâm[7]” của Tô Tiểu Tiểu và Nguyễn Uất, Tây Hồ dường như lại thêm sắc màu ấm cúng.
[7] Nhất kiến khuynh tâm: Vừa gặp đã say mê.
Phồn hoa như mộng, năm tháng dễ tan. Biết bao lần chong đèn mà vẫn không ngủ được, biết bao lần từ trên lầu cao ngóng người mà chẳng thấy. Cuối cùng nàng vẫn nếm hết nỗi tương tư, bỏ lỡ vẻ đẹp của hoa thắm trăng tròn.
“Sinh vu Tây Lãnh, tử vu Tây Lãnh, mai cốt vu Tây Lãnh, thứ bất phụ ngã Tô Tiểu Tiểu sơn thủy chi tích.” (Sinh ở Tây Lãnh, chết ở Tây Lãnh, vùi xương nơi Tây Lãnh, ngõ hầu chẳng phụ tính mê non nước của Tô Tiểu Tiểu ta) Non nước Tây Hồ, đã nuôi dưỡng linh tính của Tô Tiểu Tiểu. Người con gái này đã viết quá nhiều những câu thơ đa tình, đã từng ngắt những nhành dương liễu biệt ly, đã từng rơi giọt lệ tương tư. Ở Giang Nam đình viện sâu hun hút, ánh trắng là chiếc giường ấm áp cho nàng nằm, hồn phách chẳng nơi ký thác đó đã hoàn toàn dung hòa với non xanh nước biếc Tây Hồ, có lẽ chỉ có như thế mới có thể an ủi tâm tình “nhập thể” của nàng, không phụ mối tình một đời của nàng.
(3) Trăng thu hồ biếc
Giang Nam ức, tối ức thị Hàng Châu
Sơn tự nguyệt trung tầm quế tử, quận đình chẩm thượng khán hồ đầu.
Hà nhật cánh trùng du?
(Giang Nam nhớ, nhớ nhất chính là Hàng Châu. Chùa núi dưới trăng tìm quế tử, quận đình trên gối ngắm trào đầu. Nào dịp lại trùng du?[8])
[8] Bạch Cư Dị, tác phẩm “Ức Giang Nam” (Nhớ Giang Nam), dịch thơ Nguyễn Chí Viễn.
Gió mát kinh động ánh trăng, lá đỏ nhuộm rực non xanh. Tiếng chuông bay bổng chốn xa đang chầm chậm vọng lại sơn tự, hoa quế bóng hương lững lờ đậu trên con đường đá xanh rêu. Những hành lang vẽ tranh sơn thủy màu sắc ngập ánh hoàng hôn, để lại một khung nên thơ khó tả thành lời cho Tây Hồ.
Những cụ già đang thưởng ngoạn phong cảnh trước gió dưới ánh chiều tà hắt xiên, cạnh mình đeo một bầu rượu hoa quế hoa thơm nồng, nhàn tản, điềm tĩnh, cái họ theo đuổi là một cảnh ý không sơn không thủy. Những du khách đang chèo thuyền trên mặt hồ trong đêm trăng soi sương giăng đó, trong tay nâng một chén trà Long Tỉnh Tây Hồ, tao nhã tự tại, cái họ đang thưởng thức chính là một chén nhân sinh ý vị sâu xa.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian